
Giải pháp nâng cao chất lượng bồi dưỡng, cập nhật kiến thức cho cán bộ, lãnh đạo quản lý ngành Công Thương theo Quy định số 145-QĐ/TW
17:18 - 09/12/2025
ThS.Trần Thị Phương Thảo
Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương
Trong bối cảnh biến đổi địa chính trị như hiện nay, ngành Công Thương đang đối mặt với kỷ nguyên nhiều biến động và cạnh tranh địa chính trị gay gắt, Quy định 145-QĐ/TW ngày 10/5/2024 của Bộ Chính trị không chỉ là sự hoàn thiện thể chế mà còn là yêu cầu mang tính cấp bách đối với công tác cán bộ. Bài viết này tập trung vào các nội dung nhằm nâng cao chất lượng bồi dưỡng cho đội ngũ lãnh đạo, quản lý nhóm 3 (cấp Cục, Vụ, Viện, Sở Công Thương), lực lượng nòng cốt trực tiếp chuyển hóa đường lối vĩ mô thành chính sách thực tiễn. Thông qua phương pháp phân tích khoảng trống năng lực, nghiên cứu chỉ ra sự thiếu hụt nghiêm trọng về tư duy an ninh phi truyền thống và quản trị trong chuyển đổi kép (xanh và số) trong đội ngũ hiện nay. Từ đó, bài viết đề xuất tái cấu trúc chương trình bồi dưỡng theo 03 trụ cột chiến lược: (1) Quản trị an ninh và tự chủ chuỗi cung ứng; (2) Thực thi cam kết quốc tế; (3) Tư duy quy hoạch lưỡng dụng kinh tế - quốc phòng. Giải pháp then chốt là áp dụng đào tạo thực tiễn như xử lý khủng hoảng năng lượng, phòng vệ thương mại và gắn kết quả bồi dưỡng với quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ.
Từ khoá: Quy định số 145-QĐ/TW, tự chủ chiến lược, cán bộ lãnh đạo, quản lý nhóm 3, tư duy lưỡng dụng, chuyển đổi kép (Xanh và Số), an ninh năng lượng.
ABSTRACT
In the current context of geopolitical shifts, where the Industry and Trade sector faces an era of volatility and fierce strategic competition, Regulation No. 145-QD/TW on May 10, 2024, of the Politburo represents not merely a step in perfecting institutions but a critical imperative for cadre work. This article focuses on measures to enhance the quality of training and fostering for the group 3 leadership and management cadre (Department, Agency, and Institute levels under the Ministry, and provincial Departments of Industry and Trade). This group serves as the core force responsible for directly translating macro-level guidelines into practical policy implementation.
Utilizing the Competency Gap Analysis method, the study identifies critical deficiencies within the current cadre regarding non-traditional security mindsets and governance capabilities required for the dual transition (Green and Digital transformation).
Consequently, the article proposes restructuring the training curriculum around three strategic pillars: (1) Security governance and supply chain autonomy; (2) Implementation of international commitments; (3) A "dual-use" planning mindset integrating economics and national defense. The pivotal solution involves adopting practical training methodologies—such as simulations of energy crisis management and trade remedies - while strictly linking training outcomes to the strategic planning and appointment of officials.
1. Đặt vấn đề
Trong mọi giai đoạn phát triển đất nước, Đảng ta luôn coi trọng việc phát triển đội ngũ cán bộ, coi cán bộ là cái gốc, là nhân tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp cách mạng. Để hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII, việc xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín ngang tầm nhiệm vụ được xác định là khâu then chốt. Sự ra đời của Quy định 145-QĐ/TW ngày 10/5/2024 của Bộ Chính trị về chế độ bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp không chỉ là sự hoàn thiện về mặt thể chế Đảng, mà còn đánh dấu bước chuyển căn bản trong tư duy công tác cán bộ.
Đối với ngành Công Thương với vai trò là ngành kinh tế mũi nhọn giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, việc quán triệt Quy định 145-QĐ/TW mang ý nghĩa sống còn. Đặc biệt, đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý thuộc nhóm 3, bao gồm lãnh đạo các Cục, Vụ, Viện thuộc Bộ và lãnh đạo Sở Công Thương các địa phương thì yêu cầu về năng lực thực thi càng trở nên cấp bách. Đây là lực lượng giữ vai trò nòng cốt trong hệ thống hành chính, trực tiếp chuyển hóa các đường lối, chủ trương vĩ mô của Đảng thành chính sách cụ thể và tổ chức thực hiện trong thực tiễn. Sự nhạy bén, bản lĩnh và tầm nhìn của đội ngũ này quyết định trực tiếp đến hiệu quả quản lý nhà nước đối với các nguồn lực chiến lược của quốc gia.
Chúng ta đang bước vào kỷ nguyên mới và cạnh tranh chiến lược gay gắt, nơi mà các quy luật kinh tế truyền thống đang bị thay thế bởi tư duy địa chính trị và an ninh hóa thương mại. Ngành Công Thương Việt Nam đang đứng trước áp lực kép chưa từng có: Một mặt phải đảm bảo an ninh năng lượng và sự tự chủ của chuỗi cung ứng nguyên liệu trong bối cảnh thế giới phân mảnh; mặt khác phải thực hiện cuộc chuyển đổi kép (xanh hóa và số hóa) để vượt qua các hàng rào kỹ thuật khắt khe như CBAM hay EUDR của các thị trường lớn . Nếu không nhanh chóng thích ứng, nguy cơ tụt hậu, rơi vào bẫy gia công giá trị thấp và đánh mất lợi thế cạnh tranh quốc gia là hiện hữu.
Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, tư duy và năng lực quản trị của một bộ phận cán bộ lãnh đạo nhóm 3 hiện nay vẫn còn những khoảng trống lớn so với yêu cầu nhiệm vụ. Tư duy quản lý vẫn còn nặng về hành chính thụ động, chưa thực sự chuyển sang tư duy kiến tạo phát triển và quản trị dựa trên dữ liệu . Đặc biệt, nhận thức về kết hợp kinh tế với quốc phòng, về xây dựng nền công nghiệp tự chủ, lưỡng dụng và ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống còn hạn chế . Những bất cập này nếu không được khắc phục kịp thời thông qua công tác bồi dưỡng sẽ trở thành điểm nghẽn kìm hãm sự phát triển. Xuất phát từ yêu cầu khách quan đó, bài viết tập trung nghiên cứu "Giải pháp nâng cao chất lượng bồi dưỡng, cập nhật kiến thức cho cán bộ, lãnh đạo quản lý ngành Công Thương (đối tượng 3) theo Quy định 145-QĐ/TW", nhằm đề xuất một khung tư duy mới, giúp đội ngũ cán bộ ngành Công Thương nâng cao năng lực tự chủ, bản lĩnh chính trị và kỹ năng quản trị hiện đại trong bối cảnh mới
2. Cơ sở lý luận
Hệ thống giải pháp bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhóm 3 ngành Công Thương không thể dựa trên những kinh nghiệm trước đây, mà phải được kiến tạo trên một khung khổ lý thuyết vững chắc, kết tinh từ quan điểm chỉ đạo mới nhất của Đảng và các xu thế quản trị công hiện đại đang thịnh hành trên thế giới.
Căn cứ pháp lý đầu tiên và quan trọng nhất là Quy định số 145-QĐ/TW ngày 10/5/2024 của Bộ Chính trị. Văn bản này không đơn thuần là một quy chế hành chính, mà là sự xác lập một tư duy mới về phát triển nhân lực chính trị: chuyển dịch từ cơ chế bồi dưỡng mang tính khuyến khích, động viên sang chế độ bắt buộc, thường xuyên, đồng thời nâng tầm kết quả học tập thành thước đo đánh giá năng lực và quy hoạch cán bộ . Khác biệt căn bản so với các chương trình đào tạo khác vốn nặng về lý thuyết hàn lâm, bản chất của hoạt động bồi dưỡng theo Quy định 145 tập trung vào việc lấp đầy các khoảng trống về kỹ năng xử lý tình huống và cập nhật tư duy chiến lược trước những biến động của thời cuộc. Đối với cán bộ nhóm 3, những người nắm giữ vai trò tổng tham mưu tại các Cục, Vụ và Sở Công Thương, yêu cầu đặt ra là phải thoát khỏi tư duy quản lý sự vụ để tiếp cận năng lực hoạch định chính sách vĩ mô, đảm bảo sự tương thích giữa đường lối của Đảng với thực tiễn quản lý ngành đa ngành, đa lĩnh vực .
Trên nền tảng định hướng đó, lý thuyết quản trị nhà nước đối với ngành Công Thương cần được tái cấu trúc triệt để theo mô hình nhà nước kiến tạo phát triển. Trong bối cảnh các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (FTA) và cam kết Net Zero đang tạo ra những luật chơi khắt khe, vai trò của cơ quan quản lý nhà nước buộc phải chuyển dịch từ tư duy kiểm soát, tiền kiểm sang tư duy kiến tạo hệ sinh thái và hậu kiểm. Cán bộ quản lý không làm thay thị trường, mà tập trung xây dựng hành lang pháp lý minh bạch và các tiêu chuẩn kỹ thuật xanh để dẫn dắt doanh nghiệp tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Tư duy kiến tạo này đòi hỏi người lãnh đạo phải có bản lĩnh chính trị để gỡ bỏ các rào cản hành chính, khơi thông nguồn lực, coi sự phát triển của doanh nghiệp là thước đo hiệu quả công vụ .
Bên cạnh sự đổi mới về mô hình quản trị là yêu cầu cấp thiết về năng lực quản trị dựa trên dữ liệu. Khi dữ liệu trở thành tài nguyên chiến lược quốc gia, công tác quản lý nhà nước ngành Công Thương không thể tiếp tục dựa trên chủ nghĩa kinh nghiệm mà phải chuyển sang ra quyết định dựa trên phân tích dữ liệu lớn (Big Data) và trí tuệ nhân tạo. Năng lực này đặc biệt quan trọng trong các lĩnh vực trọng yếu như điều tiết an ninh năng lượng, dự báo cung cầu thị trường và giám sát thương mại điện tử xuyên biên giới . Việc trang bị tư duy số hóa giúp cán bộ lãnh đạo chuyển trạng thái từ bị động ứng phó sang chủ động cảnh báo, phát hiện sớm các rủi ro đứt gãy chuỗi cung ứng hay các hành vi gian lận xuất xứ ngay từ khi mới manh nha.
Cuối cùng để hoàn thiện khung lý luận là tư duy An ninh kinh tế tổng thể và quan điểm lưỡng dụng trong phát triển công nghiệp. Lý thuyết về mối quan hệ biện chứng khẳng định: kinh tế quyết định tiềm lực quốc phòng, và ngược lại, quốc phòng tạo môi trường bảo vệ kinh tế. Trước các thách thức an ninh phi truyền thống ngày càng gia tăng, cán bộ ngành Công Thương phải thấm nhuần tư duy kết hợp kinh tế với quốc phòng ngay từ khâu quy hoạch chiến lược. Hạ tầng năng lượng, logistics không chỉ phục vụ mục tiêu tăng trưởng GDP mà còn phải sẵn sàng chuyển trạng thái phục vụ quốc phòng; công nghiệp nền tảng phải được phát triển theo hướng tự chủ, tự cường để giảm thiểu sự phụ thuộc vào bên ngoài . Đây chính là hệ quy chiếu lý luận cốt lõi để xây dựng đội ngũ cán bộ Công Thương vừa có tư duy kinh tế, vừa có nhãn quan chính trị vững vàng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.
3. Phương pháp nghiên cứu
Tiếp cận vấn đề bồi dưỡng cán bộ không đơn thuần là một nhiệm vụ hành chính, nghiên cứu này vận dụng phương pháp luận của khoa học quản trị và phát triển nhân lực chiến lược để giải quyết bài toán nâng cao năng lực cho đội ngũ lãnh đạo nhóm 3. Trọng tâm là phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu, nhằm chuyển hóa các yêu cầu chính trị cốt lõi từ Quy định 145-QĐ/TW thành các khung năng lực cụ thể. Thông qua việc phân tích các chiến lược phát triển ngành và tài liệu nghiệm thu cơ sở, nghiên cứu định vị chính xác những biến số vĩ mô đang tác động trực diện đến ngành Công Thương như sự đứt gãy chuỗi cung ứng, áp lực an ninh năng lượng và các rào cản thương mại mới .
Phương pháp chủ đạo và quan trọng nhất được áp dụng là phân tích khoảng trống năng lực. So sánh đối chiếu giữa hai nhiệm vụ, một bên là yêu cầu cấp bách của bối cảnh đa khủng hoảng với các tiêu chuẩn khắt khe về chuyển đổi xanh (CBAM, EUDR) và kinh tế số ; bên kia là thực trạng tư duy quản lý còn nặng tính hành chính, thiếu nhạy bén về công nghệ và hạn chế trong tư duy liên kết vùng của một bộ phận cán bộ lãnh đạo hiện nay .
Từ việc nhận diện khoảng trống giữa yêu cầu khách quan của thời đại và năng lực chủ quan của đội ngũ cán bộ, nghiên cứu sử dụng cách tiếp cận hệ thống để kiến giải nguyên nhân và thiết kế giải pháp. Các đề xuất không cắt khúc mà tạo thành một chỉnh thể logic từ đổi mới nội dung đến phương pháp đào tạo thực chiến, nhằm giải quyết triệt để bài toán thiếu hụt năng lực quản trị an ninh phi truyền thống và tư duy lưỡng dụng trong phát triển công nghiệp.
3. Kết quả nghiên cứu
Trên cơ sở vận dụng các phương pháp nghiên cứu định tính và đối sánh dữ liệu thực chứng, kết quả nghiên cứu đã phân tích sâu sắc những mâu thuẫn nội tại trong tư duy quản trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo nhóm 3, đồng thời tái định vị hệ thống kiến thức cốt lõi cần trang bị để đáp ứng yêu cầu quản lý trong bối cảnh mới.
Kết quả phân tích thực trạng cho thấy, mặc dù đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp Cục, Vụ và Sở Công Thương đã được đào tạo cơ bản về lý luận chính trị, song trước các biến động địa chính trị và áp lực của cuộc chuyển đổi kép, năng lực thực thi công vụ đang bộc lộ những điểm nghẽn mang tính hệ thống. Điểm nghẽn đầu tiên và dễ nhận thấy nhất là sự lệch pha giữa tư duy hành chính truyền thống và yêu cầu kiến tạo phát triển. Tư duy quản lý của một bộ phận không nhỏ cán bộ vẫn mang nặng tính tiền kiểm, thiên về mệnh lệnh hành chính và xử lý sự vụ thay vì tư duy kiến tạo hệ sinh thái và quản trị rủi ro từ sớm, từ xa. Trong khi bối cảnh phân mảnh địa kinh tế đòi hỏi sự linh hoạt tối đa để hỗ trợ doanh nghiệp đa dạng hóa chuỗi cung ứng, thì tư duy nhiệm kỳ và cục bộ địa phương lại đang tạo ra các rào cản vô hình, làm chậm dòng chảy hàng hóa và đầu tư. Nghiêm trọng hơn, khoảng trống về năng lực quản trị chuyển đổi kép (Xanh và Số) đang trở thành điểm yếu. Nhiều cán bộ lãnh đạo còn lúng túng khi đối diện với các luật chơi mới như Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) hay Quy định chống phá rừng (EUDR) . Nhận thức về chuyển đổi số mới dừng lại ở việc số hóa văn bản chứ chưa đạt tới tầm mức quản trị dựa trên dữ liệu để giám sát thị trường và chống gian lận xuất xứ trong thương mại điện tử xuyên biên giới. Bên cạnh đó, tư duy lưỡng dụng kết hợp kinh tế với quốc phòng vẫn còn chưa được chặt chẽ trong thực tiễn quy hoạch hạ tầng công nghiệp và năng lượng, dẫn đến tình trạng lãng phí nguồn lực và sự chồng chéo trong quản lý không gian biển.
Thông qua việc nhận diện chính xác các điểm nghẽn trên, nghiên cứu khẳng định nội dung bồi dưỡng cho nhóm 3 theo Quy định 145-QĐ/TW không thể tiếp tục dàn trải mà phải được tái cấu trúc triệt để, tập trung vào ba trụ cột kiến thức chiến lược mang tính quyết định đối với ngành. Trụ cột thứ nhất là nhóm kiến thức về quản trị an ninh phi truyền thống và Tự chủ chiến lược. Cán bộ lãnh đạo cần được trang bị tư duy về An ninh hóa thương mại, hiểu rõ bản chất của cạnh tranh nước lớn để xây dựng các kịch bản ứng phó với sự đứt gãy chuỗi cung ứng và rủi ro năng lượng. Trụ cột thứ hai là nhóm kiến thức chuyên sâu về thực thi cam kết quốc tế và Chuyển đổi xanh. Chương trình bồi dưỡng phải cung cấp các công cụ thực hành để cán bộ hướng dẫn doanh nghiệp thích ứng với các tiêu chuẩn ESG và lộ trình thực hiện Quy hoạch điện VIII, đảm bảo chuyển dịch năng lượng công bằng và hiệu quả. Trụ cột thứ ba là tư duy lưỡng dụng trong quy hoạch phát triển, trang bị năng lực thẩm định dự án dưới lăng kính an ninh - quốc phòng, đặc biệt trong các lĩnh vực nhạy cảm như vật liệu nổ, hóa chất và logistics
5. Kết luận và giải pháp kiến nghị
Từ những phân tích lý luận và thực tiễn đã trình bày, nghiên cứu đi đến khẳng định rằng việc triển khai Quy định số 145-QĐ/TW đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý nhóm 3 ngành Công Thương không đơn thuần là một nhiệm vụ chính trị nhằm chuẩn hóa tiêu chuẩn chức danh, mà là một yêu cầu mang tính sinh tồn đối với năng lực quản trị kinh tế quốc gia. Trước sự biến động khôn lường của địa chính trị thế giới và áp lực của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, mô hình quản lý dựa trên kinh nghiệm và mệnh lệnh hành chính cũ kỹ đã ngày càng trở nên không còn phù hợp. Ngành Công Thương đang đứng trước ngã rẽ chiến lược mang tính lịch sử: hoặc nhanh chóng hiện thực hóa việc thay đổi tư duy cho đội ngũ cán bộ nòng cốt để chủ động kiến tạo phát triển, hoặc chấp nhận tụt hậu và rơi vào bẫy phụ thuộc trong chuỗi giá trị toàn cầu. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra khoảng trống lớn nhất trong năng lực cán bộ hiện nay không phải là thiếu kiến thức chuyên môn hẹp, mà là sự thiếu hụt tư duy chiến lược về an ninh phi truyền thống, năng lực quản trị chuyển đổi kép (Xanh - Số) và tư duy lưỡng dụng trong phát triển công nghiệp. Do đó, công tác bồi dưỡng cán bộ phải được coi là giải pháp đột phá để tái cấu trúc nguồn nhân lực, chuyển dịch từ tư duy quản lý sự vụ sang tư duy quản trị chiến lược, từ thế bị động ứng phó sang thế chủ động phòng vệ và kiến tạo.
Để hiện thực hóa mục tiêu tái cấu trúc năng lực này, giải pháp đầu tiên và quan trọng nhất là phải đổi mới căn bản nội dung bồi dưỡng theo hướng thực chiến và tự chủ, loại bỏ tư duy hàn lâm kinh để tập trung vào các vấn đề cốt lõi của ngành. Chương trình đào tạo cần ưu tiên tuyệt đối cho nhóm kiến thức về an ninh hóa thương mại và tự chủ chiến lược, trang bị cho cán bộ lãnh đạo khả năng nhận diện các xu hướng bảo hộ mới, rủi ro đứt gãy chuỗi cung ứng và các biện pháp phòng vệ thương mại chủ động . Đặc biệt, nội dung bồi dưỡng phải đi sâu vào chiến lược xây dựng nền công nghiệp tự chủ, giảm thiểu sự phụ thuộc vào nguồn cung nước ngoài đối với các nguyên liệu chiến lược như đất hiếm, hóa chất hay chip bán dẫn, coi đây là bệ đỡ vững chắc cho an ninh kinh tế quốc gia. Song song với đó, năng lực quản trị chuyển đổi kép cần được cụ thể hóa bằng các kỹ năng thực thi Quy hoạch điện VIII và lộ trình Net Zero. Cán bộ quản lý cần hiểu rõ cơ chế vận hành của thị trường tín chỉ carbon, các quy định CBAM, EUDR để hướng dẫn doanh nghiệp vượt qua rào cản kỹ thuật xanh, đồng thời cập nhật tư duy quản lý thương mại điện tử dựa trên công nghệ số để kiểm soát dòng chảy hàng hóa trong kỷ nguyên kinh tế số . Một nội dung mới cần được phổ cập là tư duy lưỡng dụng trong quy hoạch, giúp cán bộ Sở Công Thương có năng lực thẩm định các dự án công nghiệp, năng lượng, logistics dưới lăng kính quốc phòng - an ninh, ví dụ như quy hoạch điện gió ngoài khơi gắn với cột mốc chủ quyền hay quy hoạch kho xăng dầu sẵn sàng cho động viên công nghiệp.
Bên cạnh sự thay đổi về nội dung, phương pháp bồi dưỡng cũng cần một cuộc cách mạng để chuyển dịch từ mô hình truyền thụ một chiều sang mô hình huấn luyện tương tác. Thay vì các bài giảng lý thuyết khô khan, chương trình cần dành phần lớn thời lượng cho việc thảo luận các tình huống thực tế (case-study) đã hoặc đang xảy ra như xử lý khủng hoảng thiếu điện, ứng phó với vụ kiện chống bán phá giá hay giải quyết sự cố đứt gãy nguồn cung xăng dầu. Cách tiếp cận này giúp cán bộ rèn luyện bản lĩnh chính trị và kỹ năng ra quyết định trong bối cảnh thông tin không đầy đủ và áp lực thời gian cao. Đồng thời, cần thay thế các chuyến tham quan hình thức bằng các kỳ thực tế chiến lược tại các điểm nóng kinh tế - quốc phòng như các nhà máy công nghiệp quốc phòng hay các dự án năng lượng trọng điểm trên biển, giúp học viên thấu hiểu sâu sắc khó khăn trong bảo vệ an ninh công trình . Đội ngũ giảng viên cũng cần được đa dạng hóa bằng việc mời lãnh đạo các Tập đoàn kinh tế lớn và các chuyên gia đàm phán thương mại kỳ cựu tham gia chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn từ thương trường quốc tế .
Để Quy định 145-QĐ/TW thực sự đi vào cuộc sống, cần hoàn thiện cơ chế quản lý và đánh giá sau bồi dưỡng với những ràng buộc trách nhiệm rõ ràng. Ban Cán sự đảng Bộ Công Thương cần cụ thể hóa quy định gắn việc học tập với quy hoạch cán bộ. Việc xây dựng một ngân hàng dữ liệu năng lực cán bộ dựa trên công nghệ số để theo dõi quá trình tích lũy và áp dụng kiến thức vào thực tiễn là vô cùng cần thiết, coi đây là chỉ số KPI quan trọng trong đánh giá xếp loại đảng viên và công chức hàng năm. Hơn nữa, Bộ Công Thương cần chuyển sang cơ chế đặt hàng đào tạo theo địa chỉ đối với Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương và các cơ sở đào tạo, thiết kế các chương trình riêng biệt cho từng nhóm đối tượng đặc thù như quản lý thị trường, tham tán thương mại hay quản lý công nghiệp địa phương để đảm bảo tính sát thực và hiệu quả tối ưu. Tóm lại, đổi mới công tác bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý ngành Công Thương là một quá trình vừa cấp bách, vừa lâu dài, nhưng chỉ khi xây dựng được một đội ngũ cán bộ có tư duy kiến tạo, tầm nhìn toàn cầu và bản lĩnh chính trị vững vàng, ngành Công Thương mới có thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử là động lực tăng trưởng và trụ cột bảo đảm an ninh kinh tế của đất nước trong kỷ nguyên mới.
Tài liệu tham khảo
- Bộ Chính trị (2024). Quy định 145-QĐ/TW ngày 10/5/2024 về chế độ bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Hà Nội.
- Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội. (Dùng cho luận điểm về khát vọng phát triển và cán bộ là "then chốt của then chốt").
- Thủ tướng Chính phủ (2023). Quyết định số 500/QĐ-TTg ngày 15/5/2023 phê duyệt Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quy hoạch điện VIII). (Cơ sở cho luận điểm về chuyển dịch năng lượng).
- Liên minh Châu Âu (2023). Quy định (EU) 2023/956 về Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM).
- Liên minh Châu Âu (2023). Quy định (EU) 2023/1115 về chuỗi cung ứng không gây phá rừng (EUDR).
- Hội nghị COP26 (2021). Cam kết của Việt Nam về đạt mức phát thải ròng bằng "0" (Net Zero) vào năm 2050.
- Chalmers Johnson (1982). MITI and the Japanese Miracle: The Growth of Industrial Policy, 1925-1975. (Tài liệu gốc về lý thuyết "Nhà nước kiến tạo phát triển" - Developmental State).
- Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương (2025). Khung chương trình bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức dự kiến năm 2025.
- Bộ Công Thương. Các báo cáo tổng kết ngành, báo cáo về tình hình xuất nhập khẩu và phát triển công nghiệp.
